Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Mỹ (11/7/1995), chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Ted Osius, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, hiện là Chủ tịch Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN về cách hai nước vượt qua những thời điểm khó khăn để xây dựng mối quan hệ phát triển.
Là người gắn bó với tiến trình quan hệ Việt - Mỹ trong nhiều năm, từ trước khi bình thường hóa quan hệ, theo ông, hai nước đã trải qua giai đoạn khó khăn nào?
Giai đoạn khó khăn nhất trong quan hệ giữa hai nước là từ 1975 đến 1995. Cuộc chiến kết thúc vào năm 1975 và trong một thời gian, chúng ta đã cố gắng thiết lập lại quan hệ ngoại giao. Phái viên Mỹ Richard Holbrook đã có một số cuộc thảo luận với Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam khi ấy là ông Nguyễn Cơ Thạch nhưng các cuộc đàm phán không thành. Trong những năm 1970 không có một chút tiến triển nào. Sang đến những năm 1980, tình hình cũng không khá hơn. Tổng thống Ronald Reagan phản đối việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam do vấn đề Campuchia.
Cả nền văn hóa Mỹ cũng chống lại điều này. Những bộ phim của Sylvester Stallone, còn được gọi là Rambo, đưa ra công chúng hình ảnh những binh lính Mỹ bị bắt giữ trái ý muốn trong các chuồng cọp tại Đông Nam Á. Không có chi tiết nào trong câu chuyện này là thật nhưng nó là một phần của văn hóa đại chúng thời ở Mỹ bấy giờ.
Vì vậy, trong một thời gian dài, về mặt chính trị, việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trở nên rất khó khăn. Điều này chỉ thay đổi khi ông George H. W. Bush được bầu làm Tổng thống và chính quyền của ông bắt đầu gắn kết với Việt Nam.
Bắt đầu có sự qua lại giữa 2 nước của các phái đoàn: chuyến thăm của Ann Mills-Griffiths từ League of Families (nhóm các thân nhân của binh lính Mỹ mất tích); Đại sứ Sullivan cùng Jenny Foote, đã đến Việt Nam và bắt đầu đề cập về mối quan hệ thương mại.
Và rồi vào năm 1992, một sự kiện rất quan trọng đã xảy ra. Hai nghị sĩ John McCain và John Kerry đã có chuyến đi đến Kuwait, thời điểm kết thúc Chiến tranh vùng vịnh. Một người là đảng viên Dân chủ, một người là đảng viên Cộng hòa, và họ đã nói chuyện suốt đêm về Việt Nam trong chuyến đi này.
“Hai ông John” quyết định đã đến lúc phải làm gì đó để khôi phục quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Họ đã thành lập một ủy ban đặc biệt tại Thượng viện để xem xét tất cả các cáo buộc về những người bị giam giữ trái ý muốn và thấy rằng điều này không đúng sự thật. Hai người đã nghiên cứu hàng triệu tài liệu, xem xét các kho lưu trữ. Về cơ bản, chính phủ Việt Nam tuyên bố sẽ cung cấp bất kỳ tài liệu và phía Mỹ có thể tìm kiếm hài cốt những người lính mất tích ở bất cứ đâu.
Năm 1992, Bill Clinton được bầu làm tổng thống. Ông đã cử một phái đoàn do cựu Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh Hershel Gober dẫn đầu đến Việt Nam.
Chuyến đi này đem lại những tín hiệu tích cực. Ông Hershel Gober quay trở về và nói Việt Nam đang làm mọi thứ mà chúng ta có thể hy vọng để giúp đỡ tìm kiếm những người đã mất tích.
Chính điều này đã tạo điều kiện cho việc tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại vào 2 năm sau đó. Ngày 11/7/1995, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, với sự ủng hộ của ông John McCain, một đảng viên Cộng hòa nổi tiếng và là cựu tù binh chiến tranh.
Thượng nghị sĩ John McCain nói rằng, giờ là lúc chúng ta cần một mối quan hệ mới với một cựu thù. Đây là lợi ích của nước Mỹ. Việt Nam sẽ là đối tác quan trọng của chúng ta và là một phần quan trọng của thế giới.
Và đó là khởi đầu cho một giai đoạn mới trong mối quan hệ của chúng ta, ngày 11/7/1995.
Sau khi bình thường hóa quan hệ, chúng ta còn đối mặt với những khó khăn nào không?
Sau khi bình thường hóa, hai nước chúng ta vẫn tiếp tục trải qua nhiều thăng trầm. Nhưng tôi cho rằng chúng ta có nhiều “thăng” hơn “trầm”.
Năm 2015, chúng tôi đã đón chuyến thăm Nhà Trắng của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tại đó, Tổng thống Barack Obama và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra một tuyên bố chung, trong đó khẳng định tôn trọng thể chế chính trị lẫn nhau.
Việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có mặt tại Nhà Trắng rất quan trọng vì ông là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy sự tôn trọng đối với một thể chế chính trị khác biệt. Một năm sau đó, chúng ta có chuyến thăm của Tổng thống Barack Obama với tư cách là khách mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và chính phủ Việt Nam, hội đàm cùng Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội.
Sau đó, chúng tôi đã có một thời gian khó khăn khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) - một hiệp định thương mại quan trọng. Thời điểm đó, tôi là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam và tham gia vào quá trình đàm phán TPP.
Điều đó thật khó khăn vì chúng tôi đã đề nghị Việt Nam tham gia TPP, và chúng tôi đã rút lui. Theo một cách nào đó, chúng tôi đã không giữ đúng lời hứa. Tôi, với tư cách cá nhân, đã xin lỗi ông Nguyễn Tấn Dũng. Lúc đó, ông ấy không còn là Thủ tướng nữa. Nhưng tôi đã đến và nói lời xin lỗi. Và ông Dũng trả lời: “Không sao. Chúng ta sẽ tìm những cách khác để làm việc cùng nhau”.
Điều đó cho tôi biết một điều rất quan trọng, rằng Việt Nam sẽ có thể hợp tác với chính quyền Tổng thống Donald Trump hoặc bất kỳ chính quyền nào khác, và có nghĩa là chúng ta có thể tiếp tục tiến lên trong mối quan hệ, từ quan hệ an ninh, quan hệ giữa người dân và kể cả là quan hệ thương mại.
Và thực tế là hai nước đã làm được. Chúng ta đã tiến lên trên mọi mặt trận trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump và chính quyền Tổng thống Joe Biden.
Năm 2023, chúng ta đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Chúng ta vẫn tiếp tục tiến lên trong mối quan hệ ngay cả sau khi Mỹ rút khỏi TPP và Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và bây giờ Việt Nam là trung tâm của một mạng lưới các thỏa thuận thương mại quan trọng. Điều này một lần nữa cho thấy sự linh hoạt của Việt Nam.
Vì vậy, đối với tôi, mặc dù trong thời điểm khó khăn, chúng ta đã vượt qua và chúng ta tiếp tục tiến lên.
Sau đó, chúng tôi thu xếp được một cuộc điện đàm và sau đó là chuyến thăm đến Nhà Trắng của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, vào thời điểm khá sớm ở đầu nhiệm kỳ Tổng thống của ông Trump. Trên thực tế, Thủ tướng Việt Nam là nhà lãnh đạo đầu tiên từ Đông Nam Á đến gặp Tổng thống Trump. Chuyến thăm đã thành công. Chúng ta đã có thể tìm ra những lĩnh vực mà chúng ta có thể hợp tác. Không lâu sau đó, đã có một thỏa thuận về việc tàu sân bay đầu tiên của Mỹ đến thăm Việt Nam kể từ sau năm 1975.
Ngay cả trong thời điểm khó khăn, chúng ta vẫn có thể tìm thấy sự hợp tác. COVID là một ví dụ khác. Mỹ đã cung cấp vắc-xin cho Việt Nam trong khi Việt Nam cung cấp khẩu trang và thiết bị bảo hộ cá nhân cho Mỹ. Trong thời điểm khó khăn, chúng ta vẫn tìm ra cách để hợp tác. Và tôi rất tự hào về điều đó. Giống như hoa sen, mọc lên từ bùn và nở hoa đẹp đẽ.
Điều gì đã giúp chúng ta vượt qua những thời điểm khó khăn đó?
Điều đã giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, tôi nghĩ khá đơn giản, đó là sự tôn trọng lẫn nhau và xây dựng lòng tin. Và lòng tin không có sẵn trên giấy, lòng tin đến từ việc thảo luận, quyết định điều gì là quan trọng và sau đó cùng nhau hợp tác.
Hai nước chúng ta đã xây dựng lòng tin đối với những vấn đề còn sót lại từ chiến tranh. Chúng ta xây dựng lòng tin khi tìm kiếm những người đã mất ở cả hai bên, chúng ta xây dựng lòng tin khi chúng ta cùng nhau dọn dẹp chất độc màu da cam, khi chúng ta cùng nhau dọn dẹp bom mìn chưa nổ, khi chúng ta cùng nhau làm việc về một hiệp định thương mại song phương, khi chúng ta cùng nhau làm việc để Việt Nam tham gia các nỗ lực gìn giữ hòa bình toàn cầu, khi chúng ta cùng nhau chống lại dịch bệnh, khi chúng ta cùng nhau làm sạch môi trường, khi chúng ta cùng nhau làm việc để Việt Nam phát triển nhân tài kỹ thuật để có thể thu hút thêm đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nghệ cao vào Việt Nam. Cách chúng ta cùng nhau làm việc đã xây dựng thêm lòng tin.
Hiện tại quan hệ thương mại giữa 2 nước đã phát triển vượt bậc. Khi tôi mới đến vào năm 1996, hai nước có khoảng 800 triệu USD thương mại hai chiều, và năm ngoái con số này là 150 tỷ USD. Chúng tôi có trường đại học theo phong cách Mỹ tại đây cũng như hàng chục nghìn người Việt Nam đang học tập tại Mỹ; khách du lịch qua lại giữa hai nước… Tôi nghĩ đó là kết quả của sự tôn trọng và tin tưởng.
Hiện nay hai nước đang tiến hành một cuộc đàm phán về thuế. Ông nghĩ các nguyên tắc đã giúp hai nước vượt qua trong quá khứ sẽ thành công trong hiện tại?
Vâng, chắc chắn rồi. Hãy nhìn vào thời điểm Mỹ rút khỏi TPP, Việt Nam đã có cách tiếp cận thực tế. Hiện tại cũng vậy.
Thông điệp từ Tổng Bí thư Tô Lâm, thông điệp từ Thủ tướng Phạm Minh Chính và mọi quan chức mà chúng tôi gặp đều là hãy cùng nhau làm việc để giảm thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ.
Chúng ta đã có một loạt các chuyến thăm đến Washington: Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc, với tư cách là người dẫn đầu phái đoàn trong tuần đầu tiên của tháng 4. Điều này diễn ra ngay sau cuộc điện đàm của Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thống Trump vào ngày 4/4.
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc đã đến sau đó vài ngày và bắt đầu đàm phán với Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Đại diện Thương mại Mỹ. Ông cũng đã gặp tôi và các thành viên trong Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN.
Và sau đó là nhiều phái đoàn đàm phán khác của Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên và một biên bản ghi nhớ mua nông sản Mỹ gần 3 tỷ USD trong chuyến đi hồi tháng 6 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và môi trường Đỗ Đức Duy.
Các cuộc đàm phán được tiến hành một cách thiện chí và hai nước đã đạt được một thỏa thuận khung. Đây chưa phải là kết quả cuối cùng nhưng cho thấy hai bên sẽ tiếp tục đàm phán và tìm ra các giải pháp cho các vấn đề chung.
Chúng ta có đủ lòng tin giữa hai quốc gia và đủ sự tôn trọng lẫn nhau để có thể có những cuộc thảo luận thẳng thắn, có hiệu quả và cùng nhau giải quyết các vấn đề. Vì vậy, tôi cho rằng nguyên tắc như cách đây 10 năm, 20 năm và 30 năm vẫn đúng đắn.
Ngày nay, Việt Nam đang có những cải cách lớn. Phản ứng của các doanh nghiệp Mỹ ra sao và ông đánh giá thế nào về triển vọng hợp tác trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư giữa hai nước?
Tôi rất lạc quan và tích cực về Việt Nam. Tôi làm việc với 184 công ty, hầu hết là các công ty Mỹ. Và họ thực sự quan tâm đến Việt Nam. Vào đầu năm nay, Việt Nam đã bắt tay vào cải cách hành chính, giảm số lượng các bộ và số lượng tỉnh thành từ 63 khi tôi ở đây trước đây xuống còn 34 như hiện nay.
Và các doanh nghiệp của chúng tôi hoan nghênh và phản hồi rất tích cực vì điều đó có nghĩa là Việt Nam muốn giảm bớt tình trạng quan liêu, muốn cải thiện giấy phép nhanh hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư. Điều này giúp Việt Nam có khả năng cạnh tranh hơn để thu hút đầu tư.
Tôi nghĩ các công ty sẽ tiếp tục đến đây. Các công ty thực sự quan tâm đến công nghệ, năng lượng sạch, dược phẩm và sức khỏe, thiết bị y tế, dịch vụ tài chính tại đây, du lịch và lữ hành…. Tất cả các lĩnh vực đó đều rất hấp dẫn.
Mọi người trong cộng đồng doanh nghiệp rất lạc quan về Việt Nam. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang đi đúng hướng. Đây cũng là lý do tại sao tôi chuyển đến Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nghĩ rằng tương lai ở đây, một đất nước rất năng động.
Nếu chọn một biểu tượng cho mối quan hệ hai nước chúng ta, đó sẽ là gì?
Rất nhiều người sẽ nói là chim bồ câu hòa bình, vì bạn biết đấy, chúng ta đã chuyển từ cựu thù sang bạn bè, chúng ta đã tạo ra hòa bình. Nhưng tôi chọn một biểu tượng khác. Đó là chiếc xe đạp. Chiếc xe đạp, bạn biết đấy, nó khiêm tốn, không giống như Cadillac, hay máy bay, hay bất cứ thứ gì công nghệ cao.
Nhưng khi tôi mới đến đây, đó là phương tiện mà mọi người thường đi khắp mọi nơi. Tôi thích đi xe đạp. Tôi vừa mua cho con gái tôi một chiếc xe đạp để con bé có thể đi vòng quanh Thành phố Hồ Chí Minh, và tôi sẽ đạp xe vòng quanh Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi đã đạp xe ở Hà Giang và từ Hà Nội vào Sài Gòn, đã đạp xe ở miền Trung và miền Tây. Tôi đã đạp xe khắp đất nước này. Và khi làm vậy, tôi được nói chuyện với mọi người, có thể là với những người đạp xe cùng tôi, hoặc tôi có thể dừng lại bên lề đường và nói chuyện với ai đó.
Dù ở đô thị hay nông thôn bạn vẫn có thể sử dụng xe đạp. Xe đạp cũng là một loại phương tiện tự vận hành. Một mối quan hệ cũng tương tự như vậy. Khi cùng nhau đạp xe, chúng ta cùng chia sẻ con đường và học hỏi lẫn nhau. Và tôi nghĩ chúng ta sẽ tiếp tục “đạp xe” cùng nhau trong một thời gian dài.
Xin cảm ơn ông!
Lan Hương
