Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến đối với dự thảo nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục đại học. Trong đó đề xuất siết chặt các điều kiện công nhận cơ sở giáo dục đại học đạt danh xưng "đại học".
Một trong những điểm thay đổi đáng chú ý của dự thảo là yêu cầu về cơ cấu tổ chức. Theo đó, để được công nhận là đại học, cơ sở giáo dục phải có ít nhất 5 trường trực thuộc, thay vì 3 trường như quy định hiện nay. Quy mô đào tạo chính quy cũng được nâng lên tối thiểu 25.000 người học, tăng mạnh so với mức 15.000 người theo Nghị định 99/2019.
Dự thảo đồng thời đặt ra tiêu chí cao hơn về trình độ đào tạo và đội ngũ giảng viên. Cụ thể, đại học phải có tối thiểu 25 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ; tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ đạt ít nhất 60%, trong đó có sự tham gia giảng dạy của giảng viên quốc tế với tỷ lệ tối thiểu 5%. Quy mô đào tạo sau đại học phải chiếm ít nhất 20% tổng số người học, còn tỷ lệ người học quốc tế đạt tối thiểu 3%.
Ảnh minh họa
Trao đổi với PV Đời sống và Pháp luật, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhận định, việc siết chặt quy định, phân loại, xếp hạng các trường là rất cần thiết cho người học và cho sự phát triển nhân lực của quốc gia. Tuy nhiên, việc siết nên dựa trên khoa học giáo dục.
Theo TS Khuyến, hiện nay nhiều trường thực chất vẫn là đơn ngành, không đào tạo sau đại học, không nghiên cứu nhưng gắn tên “University (đại học)" vì uy tín thương hiệu và mong muốn thu hút sinh viên.
Hệ thống luật hiện hành ở Việt Nam chưa có phân tầng và tiêu chuẩn rõ ràng về định danh cơ sở giáo dục đại học, nên không có chế tài kiểm soát.
Theo thông lệ quốc tế, một đại học đúng nghĩa thường bao gồm các lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu trải rộng trên cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhân văn, và các ngành nghề chuyên môn như kỹ thuật, y khoa, kinh tế, luật… Ngoài ra, nếu một cơ sở giáo dục đại học không có các lĩnh vực khoa học cơ bản, trong đó có cả khoa học xã hội và nhân văn, thì khó có thể xem là một “university” theo nghĩa đầy đủ, cho dù có thể vẫn được gán nhãn như vậy.
Việc thiếu vắng trường hoặc khoa khoa học cơ bản khiến đại học đó dẫn đến thiếu nền tảng học thuật để phát triển tư duy phản biện, nhân văn và liên ngành. Gặp hạn chế trong việc tạo ra nghiên cứu cơ bản, vốn là một trụ cột của các đại học lớn. Bị lệch mạnh về hướng nghề nghiệp hay kỹ thuật thay vì "đại học".
“Nếu chưa đạt tầm đa lĩnh vực, anh chỉ nên dừng ở cấp học viện (Academy), nơi tập trung vào một nhóm ngành cụ thể. Việc chuyển đổi từ 'Trường Đại học' sang 'Đại học' phải phản ánh sự thay đổi về chất trong cấu trúc tổ chức, chứ không phải là sự thay đổi tên gọi đơn thuần”, TS Khuyến lấy ví dụ.
Chuyên gia lý giải thêm, hiện nay xu thế thế giới ưu tiên mô hình đại học đa lĩnh vực vì sinh viên sẽ được học các môn đại cương (toán, lý, văn học, chính trị…) từ những giáo sư giỏi nhất thuộc các trường thành viên chuyên biệt.
“Một trường chuyên ngành báo chí khó có thể có phòng thí nghiệm hay đội ngũ giảng viên toán học xuất sắc. Nhưng nếu nằm trong một đại học đa lĩnh vực, sinh viên báo chí sẽ được học toán từ những giảng viên hàng đầu của trường khoa học tự nhiên. Đó mới là giá trị thực sự của mô hình đại học đa lĩnh vực, lấy lợi ích người học làm trọng tâm”, TS Lê Viết Khuyến phân tích.
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam
Một số tiêu chí còn "khắt khe"?
Tuy nhiên ông cho rằng, một số tiêu chí định lượng đang tỏ ra máy móc và thiếu am hiểu thông lệ quốc tế. Đặc biệt là quy định đại học phải có ít nhất 25 ngành đào tạo tiến sĩ và quy mô 25.000 sinh viên chính quy.
Ông dẫn chứng: “Viện Công nghệ California (Caltech) của Mỹ chỉ có vài nghìn sinh viên nhưng là đại học hàng đầu thế giới. Ngược lại, có những trường quy mô hàng trăm nghìn sinh viên nhưng chưa chắc đã đạt chuẩn đại học nghiên cứu. Việc ép con số 25 ngành tiến sĩ là đang đánh đồng giữa đại học nghiên cứu và đại học ứng dụng".
Theo ông, tiêu chuẩn khắt khe về bằng cấp tiến sĩ và nghiên cứu hàn lâm chỉ nên áp dụng cho các đại học định hướng nghiên cứu. Với đại học định hướng ứng dụng, tiêu chuẩn cần tập trung vào đội ngũ giảng viên có tay nghề cao, chuyên gia thực tiễn, những người có thể không có bằng tiến sĩ nhưng thừa kinh nghiệm để truyền nghề.
Chính vì thế vị chuyên gia cho rằng, thông qua dự thảo chúng ta cần thiết lập hệ thống phân tầng rõ ràng: Research university, Teaching University, College… giống như Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc đã làm. Chỉ cho phép dùng danh xưng "University" khi đạt các chuẩn tối thiểu về lĩnh vực, cấp độ đào tạo và năng lực nghiên cứu. Nên có bộ tiêu chí quốc gia về việc gắn tên tiếng Anh chính thức để tránh “thổi phồng thương hiệu”.
Ngoài ra, chúng ta có thể học hỏi cách làm của nhiều nước láng giềng để giảm lạm dụng tên gọi "university" khi chưa đạt chuẩn. Tái cấu trúc mạng lưới các trường công nhỏ lẻ bằng cách phân tầng: nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng, nghề. Hỗ trợ chính sách phù hợp (ngân sách, tuyển sinh, tự chủ) theo từng loại hình cụ thể.
“Các đại học đa lĩnh vực thực sự nên tổ chức gọn, trao quyền mạnh để chủ động phát triển ngành/chuyên ngành và hợp tác liên ngành. Bộ môn nếu tồn tại, chỉ nên là nhóm chuyên môn học thuật linh hoạt, không cần thiết phải tổ chức hành chính riêng”, vị chuyên gia gợi ý.
